Hà Công Thái
Hà Công Thái là người đầu tiên ở miền núi Thanh Hóa tìm đường liên lạc với Nguyễn Ánh. Ông cử người tâm phúc lặn lội vào tận Trấn Biên gặp chủ mới. Nguyễn Ánh mừng rỡ có người tâm phúc ém sẵn ở vùng thượng đạo Thanh Hóa. Sách Đại
Từ một thổ ty ở vùng núi xa xôi, tiếng tăm chưa vượt xa bản mường, Hà Công Thái đã bước lên vũ đại chính trị. Ông xây dựng một đạo quân, chuẩn bị đón quân Nguyễn ở các huyện miền tây Thanh Hóa. Chính quyền của Quang Toản biết rõ nhưng không đủ lực để đánh dẹp. Ông lại cho người vào Gia Định gặp Nguyễn Ánh. “Năm Canh Thân (1800) tháng 4, phiên thần Thanh Hóa là khâm sai chánh thống lĩnh quận công Hà Công Thái sai người dâng biểu xin tập hợp bọn thổ tù và sửa sang binh khí để theo bọn thượng đạo tướng quân Nguyễn Văn Thụy đi đánh giặc. Vua khen tốt, cho bọn thuộc hạ và Phạm Công Thọ, Hà Công Hợp, 14 người làm cai cơ và cai đội theo thứ bậc khác nhau” (2).
Quan hệ giữa Hà Công Thái với Nguyễn Ánh được xây dựng từ thời Nguyễn Ánh còn ở Trấn Biên, Gia Định và không phải chỉ một mình Hà Công Thái tìm cách liên lạc với Nguyễn Ánh. Chính Nguyễn Ánh đã sai người ra Thanh Hóa tìm gặp ông. “Lấy Nguyễn Văn Toan và Nguyễn Văn Khâm làm khâm sai cai cơ. Năm Kỷ Mùi (1799), bọn Văn Toan phụng mật dụ đi Thanh Hóa (đến Điền Lư) cùng với thống lĩnh thượng đạo và Hà Công Thái chiêu mộ quân nghĩa dũng để làm sách ứng cho quan quân. Vua truy công đó nên có lệnh này” (3).
Khi Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân, Hà Công Thái cử người vào gặp xin chỉ dụ. “Tháng 5 năm Tân Dậu (1801) thống lĩnh thượng đạo Thanh Hóa và Hà Công Thái sai người dâng biểu mật nói việc quân. Vua dụ rằng: Ta nay đã thu phục Kinh đô cũ, giặc Nguyễn Quang Toản đã chạy về Bắc, đã ứng cho điều quân thượng đạo Lưu Phước Tường hội với nước Vạn Tượng đánh Nghệ An. Ngươi nên đem quân bản bộ đánh Thanh Hóa, đợi ta sắp đặt tạm xong sẽ tiến đánh Bắc Hà để thống nhất đất nước, ngươi nên cố gắng” (4).
Hà Công Thái sắp xếp quân bản bộ tràn xuống các huyện đồng bằng, các huyện Lôi Dương, Thụy Nguyên, Vĩnh Lộc, Yên Định… không gặp sức chống cự nào. Khi Nguyễn Ánh đến trấn thành Thanh Hóa (tháng 6 năm Nhâm Tuất 1802) thì chỉ còn việc “dạo xem bình thế sông núi, rồi vời những người già ở làng Bố Vệ hỏi về sự tích cũ miếu nhà Lê…”.
Điểm qua sách xưa có thể thấy rõ công của Hà Công Thái đối với vương triều Nguyễn rất lớn.
Sau cuộc diện kiến chốc lát ở trấn thành Thanh Hóa (tháng 6 – 1802), Nguyễn Ánh tiếp tục lên đường ra Bắc kỳ hoàn thành công cuộc thống nhất đát nước. Gia Long chia nước thành 14 trấn, 47 phủ, 187 huyện, 40 châu. Trấn Thanh Hóa có 4 phủ; 16 huyện; 3 châu: Quang Da, Lang Chánh, Tàm Châu. Gia Long phong cho Nguyễn Đức Xuyên tước quân công lãnh đốc trấn Thanh Hóa, tham tri Binh bộ là Võ Danh Trung làm hiệp trấn, thiêm sự Lại bộ Lê Đắc Tần làm tham hiệp.
Hà Công Thái được phong quận công, khâm sai chánh thống lãnh thượng đạo trấn Thanh Hóa. Tước quận công là vinh hàm cao nhất của triều Nguyễn vốn dĩ chỉ phong cho tam thái (Thái sư, Thái phó và Thái bảo) và tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó và Thiếu bảo). Tờ cáo trục phong tước sắc vàng, thứ tơ của Tàu, bốn xung quanh thêu hoa, do viện Hàn lâm soạn, quan khâm mạng tuyên phong (5), không thấy sách ghi mỹ hiệu của quận công Hà Công Thái nhưng theo sử sách đã dẫn tước quận công thì lấy tên huyện. Trên đất Bá Thước xưa đã có người được phong tước công như Lân quận công Hà Thọ Lộc, Thụy quận công Hà Nhân Chính, Hà Thọ Tường; có điều là mọi người thường được phong tước từ thấp lên cao, còn trường hợp Hà Công Thái được phong thẳng vào cấp bậc cao nhất của vinh hàm thời Nguyễn: Quận Công. Sách Đại
Năm 1803, vua Gia Long lại cho Hà Công Thái kiêm chức coi quế bộ (hộ tìm quế). Quế tìm được đem vào Huế cho vua và hoàng tộc dùng. Quế còn được dùng làm đồ tiến cúng vua nhà Thanh hoặc ban cho các đại thần. Năm Ất Sửu (1805) mùa xuân, tháng Giêng “Quan thống lĩnh thượng đạo Thanh Hóa là Hà Công Thái vào chầu, vua cho một bộ mũ áo, 100 quan tiền. Khi về lại ban áo, quần cho bộ thuộc theo thứ bậc khác nhau” (6). Cuộc đi Huế lần đầu của Hà Công Thái diễn ra trong cả tháng Giêng.
Cuối năm ấy ông kiểm kê quân trực thuộc là 1.249 người gồm quân thường trực 581 người, chia làm 7 chi gồm: Khâm sai cai cơ chánh quản các đội 11 người, cai bạ 1 người, chánh quản chi 7 người, phó quản chi 7 người, trưởng hiệu các đội 35 người, phòng ngự sứ chia quản các động sách 11 người, thủ ngự sử 28 người, quân dự trữ 49 người, 3 đội đi tìm quế 178 người” (7). Rõ ràng là Hà Công Thái được vua Gia Long cho quản lý một vùng phên dậu ở biên cương với một lực lượng quân sự mạnh, có quan quân dưới quyền nắm đến tận các sách, động.
Hà Công Thái là người có tham vọng lớn, ông muốn đưa quân đi dẹp phỉ ở vùng Nghệ An, Hòa Bình, Thanh Hóa. Năm Kỷ Tỵ (1809), ông tâu lên vua đi truy bắt bọn phỉ Quách Tất Thúc và Trịnh Văn, Gia Long dụ “xem tờ tấu của ngươi, đủ thấy tấm lòng thành khẩn… Ngươi nên đóng giữ đại lại mình đề phòng nghiêm ngặt, không cần ra ngoài địa phận để tìm bắt” (8). Hà Công Thái lại còn tâu xin nhà vua cho tri bạ Lê Tuấn Tri làm tri huyện Cấm Thủy. Vua không cho và nói: “Huyện lệnh là chức gần dân, triều đình tự có phép tuyển chung, sao lại khinh suất bổ cho người riêng… Công Thái không nên xin riêng…” (9).
Đây cũng là lời dặn dò cuối cùng của vua Gia Long với công thần Hà Công Thái. Khi Gia Long băng hà (ngày 19 – 12 năm Kỷ Mão 1819), Hà Công Thái vào viếng và sau đó có mặt ở lễ đăng quang của Minh Mệnh. Ông cũng được vào yết kiến vua mới, nhà vua ban cho Hà Công Thái gươm và súng tay. Trước khi rời kinh đô về Thanh Hóa, ông đã vào bệ từ vua Minh Mệnh. Trong buổi bệ kiến có các quan ở ngoài (ở các trấn), vua chỉ dặn riêng Hà Công Thái công việc (hoặc các quan khác vua cũng có lời dặn dò nhưng chỉ có lời vua dặn ông được ghi vào Quốc sử): “Ngươi ở đạo, phàm mọi việc nên cùng với đốc trấn bàn bạc xét kỹ cơ nghi sao cho giặc cướp lặng yên, trấn đạo thanh tỉnh để đền đáp ơn hậu đãi của triều đình, phải cố gắng đấy” (10). Xem lời dặn dò của vua Minh Mệnh, ta thấy nhà vua rất quý trọng Hà Quận Công. Nhà vua dặn ông “phàm mọi việc nên cùng với đốc trấn bàn bạc, xét kỹ cơ nghi…”. Như vậy, ông là người ngang hàng với đốc trấn (cùng là tước quận công), ông còn được cấp ấn quan phòng (cùng được cấp ấn quan phòng dịp tháng 3 năm Tân Tỵ 1821 có ty quản lý thương bạc, tào chính các tạo hộ, binh, hình, công của Gia Định và Bắc Thành).
Trong dịp vua Minh Mệnh ra Thăng Long nhận sắc phong của nhà Thanh đã dừng chân ở Thanh Hóa, dịp này Hà Công Thái dẫn các thổ tù đến chiêm bái. Vua thấy Thái tuổi già sai người nâng dìu lên điện. Thái sợ hãi, vua dụ rằng: “Ngươi hiến thân làm tôi, không phải một ngày còn hiềm ngờ gì mà có ý sợ, sai cùng với con là Quỳnh theo hầu…”. Minh Mệnh cho quà, an ủi rồi bảo về coi sóc vùng đất cũ.
Năm Nhân Ngọ (1822) tháng 3, tin dữ truyền vào kinh thành Huế, Hà Công Thái bị kẻ cướp bắn chết. Vua được tin lấy làm thương, cho tuất 100 lạng bạc và 20 tấm lụa. Hai mươi tám năm theo hầu hai vua, từ thưở cơ nghiệp nhà Nguyễn còn đang ở thời kỳ lận đận (1894) đến khi đất nước tạm yên, Hà Quận Công để lại những chiến công bất hủ, được vua yêu, dân mến. Nhiều tham vọng còn dang dở.
Hà Công Thái bị Phạm Nho, một người dân thường ở Mường Danh (Cẩm Thủy) hạ sát bằng súng kíp trong khi ông dự đám tang của người anh em kết nghĩa. Ngày Hà Công Thái chết được Đại
Sau này lịch sử Việt
Thời Hà Công Thái còn tại thế, triều đình Nguyễn chưa có lệ phong hàm. Phải đến năm Minh Mệnh thứ 7 (1826) mới đặt lệ phong hàm (có 18 bậc cho 9 hàm, mỗi hàm có chánh và tòng) nên không thấy nói là ông được phong hàm gì, nhưng căn cứ theo bia Trương quận phu nhân ở xã Điền Trung được dựng ngày 23 – 3 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) có thể suy ra: Theo quy định đó thì vợ các quan nhất phẩm, nhị phẩm được phong phu nhân, tam phẩm phong thục nhân… Xin trích nội dung văn bia:
“Phu nhân họ Trương (12), người Giáp Nội, Sa Lung, Cẩm Thủy. Là con gái thứ của thổ tù, tên là Trương Thị Bình, tính tình nhân từ, đôn hậu hiền thục như thiếu nữ. Lớn lên gặp quan Khâm sai Chánh thống lĩnh Thượng đạo kiêm giám đốc quế, tước Hồ quận công, tên tự là Thái lấy làm vợ. Giữ trọn đạo nhà, năng động trong công việc. Các cô cậu đều hòa thuận, người quyền quý ái mộ, chăm lo cho sách dân, hòa nhã em gái, em dâu, em trai, rực rỡ trong làng bản, làm cho cảnh nhà thêm nghiêm vững rực rỡ. Ông (chồng) gửi thác trọng trách, có chí yên dẹp bốn phương, Trương phu nhân lấy sự nhẹ nhàng hòa thuận mà giúp đỡ. Phàm công việc lớn nhỏ trong nhà đều làm trôi chảy. Ông (chồng) hơn nữa yên tâm lo công việc bên ngoài dần lo công việc. Chí lớn được thành, được vinh quang phong quốc sủng, gia đình nổi tiếng. Từ đấy huy trấn một vùng, nhiều người đến giúp sức.
Ông (chồng) về trời trước phu nhân, lấy việc nhà làm căn do, con trai chăm lo nghiệp nhà, con gái lo việc công xưởng, sau này con cháu thỏa nguyện, nói nhàn hạ ấy là sự chăm lo có bàn tay giúp đỡ của Trương phu nhân. Năm Minh Mệnh 13 (1832) tứ năm Nhâm Thìn, tháng 11 bà mất, hưởng thọ 65 tuổi. Ngày tháng 3 năm Quý Tỵ, con cháu dâu rể cả tộc cùng thôn dân chọn ngày tốt làm lễ tống chung ở đầu Đống Trường. Tháng 4 đế chỗ ta xin bài văn bia để truyền mãi tên tuổi muôn thuở.
Lớn lao thay, ôi! Trương quận phu nhân là bậc nữ tiết liệt, mà nay làm mẹ, cho nên ấy là cái tinh túy của trời đất chung đúc lên, bậc thiện nhân làm cho cảnh hưng phát, nhờ được sự giúp đỡ của bà mà thành, ấy là ý nguyện đáng ký thác”.
Qua văn bia ta thấy: Hà Công Thái tước hộ Quận Công, vợ ông là Trương Thị Bình được phong tước phu nhân (là tước hiệu của vợ quan nhất nhị phẩm thời Minh Mệnh). Bà mất sau ông 10 năm (1832) thọ 65 tuổi. Khi về làm dâu nhà họ Hà thì chồng đã là khâm sai chánh thống lĩnh, Hộ quận công. Bà phải kém chồng mươi tuổi, vậy lúc hộ quận công mất tuổi đã ngoài 60 (lúc đó vợ 55 tuổi).
Chú thích:
1/ Đại
2/ ĐNTL, Sdd, T.1, tr 410.
3/ ĐNTL, Sdd, T.1, tr 554.
4/ ĐNTL, Sdd, T.1, tr 590.
5/ Đại
6/ ĐNTL, Sdd, T.1, tr 623
7/ ĐNTL, Sdd, T.1, tr 648.
8 ĐNTL, Sdd, T.1, tr 55.
9/ ĐNTL, Sdd, T.1, tr 69
10/ ĐNTL, Sdd, T.1, tr 199.
11/ Sách đã dẫn, T.2, tr 581.
12/ Bản dịch của Nguyễn Văn Hải.