HÀ TỘC - HỘI ĐỒNG HỌ HÀ VIỆT NAM
0983699386
Hà Tông Quyền

Hà Tông Quyền

Năm Nhâm Ngọ (1822), ông đỗ Tiến sĩ, làm đến Tham tri bộ Lại. Lúc ở nội các, lúc ở viện Cơ mật, ông hết lòng lo liệu việc dân việc nước. Ông nổi tiếng văn chương đương thời.
Năm Nhâm Thìn (1822), ông đi công cán ở nước ngoài, tại Ba Lăng (Bali thuộc xứ Nam Dương). Khi về, bao nhiêu thơ sáng tác trong lúc xa nước xa quê, ông gom thành một tập đề là Mộng dương, các thơ văn khác gom vào bộ Tốn Phủ thi văn tập.
Vua Minh Mạng khen tài ông: “Kiện tiệp tài tử”.
Năm Kỷ Hợi (1839), ông mất, hưởng dương 50 tuổi, được phong là Thượng thư bộ Lại. 

Để tìm hiểu hơn về cuộc đời của ông mời quý vị theo dõi ký sự dài kỳ của tác giả Nguyễn Thành Hữu - Báo Khoa Học Đời Sống 

Hà Tông Quyền – bước đường hoạn lộ gập ghềnh - Kỳ 1

Hà Tông Quyền – bước đường hoạn lộ gập ghềnh, dù có tài văn thơ nhưng cứ ba bốn năm ông lại bị một lần quở trách hoặc giáng phạt với lý do không đâu vào đâu.

Hình minh họa.

Nhất độc thập hàng

Hà Tông Quyền (1798 -1839), sau đổi là Hà Quyền do kiêng tên húy của Thiệu Trị (Miên Tông), tự Tốn Phủ, hiệu Phương Trạch, biệt hiệu là Hải Ông; là nhà thơ và là quan nhà Nguyễn.

Đời Lê sơ, tổ tiên Hà Tông Quyền ở Can Lộc, Hà Tĩnh. Tới đời Lê Trung hưng di cư ra Yên Định, Thanh Hóa; thời kỳ này, có Hà Tông Huân đỗ Tiến sĩ.

Về sau, tổ tiên ông lại di cư ra ở làng Cát Động, Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, trấn Sơn Nam (nay thuộc thị trấn Kim Bài, Thanh Oai, thành phố Hà Nội). Đến đời Hà Tông Quyền thì tổ tiên ông đã định cư ở Cát Động tới ba hoặc bốn thế hệ.

Theo Đại Nam liệt truyện, cha Hà Tông Quyền là Hà Tông Đồng, đỗ cử nhân đời Lê, không ra làm quan, mà mở trường dạy học trong làng. Cha mất sớm, mẹ là người họ Trịnh, tần tảo nuôi con khôn lớn, ông được học hành đến nơi đến chốn là nhờ bà mẹ đảm đang này.

Tương truyền, từ nhỏ ông đã nổi tiếng thần đồng, có tài đọc sách rất nhanh, một thoáng liếc mắt có thể đọc được tới chục hàng chữ (nhất độc thập hàng).

Truyện Hà Quyền chép trong Phương Trạch Hà Tốn Phủ truyện có câu: “Dạ tĩnh thường văn độc thư thanh” nghĩa là đêm thanh vắng thường nghe tiếng (ông) đọc sách.

Khi các thầy đồ trường làng “hết chữ”, ông khăn gói về Thăng Long theo học tại trường của Phạm Quý Thích và Bùi Huy Bích. Ở đây, ông kết bạn với Nguyễn Văn Siêu, Ngô Thế Vinh và Vũ Tông Phan…

Bị cách chức vì sai sót khi duyệt tài liệu

Năm Tân Tỵ (1821) đời Minh Mạng, ông thi đỗ Hương Cống (cử nhân). Năm sau (1822), khi nhà Nguyễn bắt đầu mở khoa thi Hội, ông lên đường vào Huế ứng thí và đỗ Tiến sĩ Hội nguyên, trở thành một trong những ông nghè khai khoa cho Triều Nguyễn.

Sau khi thi đỗ, Hà Tông Quyền lần lượt giữ các chức Tri phủ Tân Bình, Tham biện Quảng Trị, Thự thiêm sự bộ Công, Thái thường tự Thiếu khanh, Hữu Thị lang bộ Lễ, Hàn lâm viện Kiểm thảo; ông hết lòng lo liệu việc dân, việc nước, nổi tiếng văn chương đương thời.

Năm 1831, ông thăng làm Hữu Thị lang bộ Hộ, nhưng chủ yếu coi việc Nội các. Cuối năm này, vì sơ suất nhỏ trong việc duyệt tài liệu mà bị cách mọi chức tước và bị đi hiệu lực sang Bali – thuộc quần đảo Nam Dương.

Về việc này, sách Đại Nam thực lục chép như sau: “Mùa đông, tháng 11, năm Tân Mão (1831), Hộ bộ Thị lang sung Nội các là Hà Quyền bị tội, mất chức, trước kia được giao bài thơ “Thu thành phân số” của nhà vua làm, dưới chỗ chú thích có chữ Thanh Xuyên huyện, người thuộc viên ở Nội các viết lầm là Thanh Châu.

Vua hỏi Quyền, Quyền hoảng sợ, tâu: Trót theo tờ sớ của trấn. Sau biết là lầm, bèn lén đem chữa lại tờ sớ để cho đúng với lời tâu. Thuộc viên ở Nội các là Trần Lý Đạo đàn hặc Quyền về tội đó. Vua sai đình thần luận tội. Đáng xử tội đồ, nhưng vua đặc cách ra lệnh cách chức, cho làm lính, phát đi đường biển để gắng sức làm việc chuộc tội”.

Khi về, bao nhiêu thơ sáng tác trong lúc xa nước xa quê, ông gom thành một tập đề là Mộng dương, các thơ văn khác gom vào bộ Tốn Phủ thi văn tập. Vua Minh Mạng khen tài ông: “Kiện tiệp tài tử”.

Sau đó mấy tháng, khoảng giữa năm 1832, vua Minh Mạng gọi ông về, ban chiếu cho vào Nội các, cho phục chức cũ, nhà vua nói: “Khanh đi 3 tháng, Trẫm ăn không ngon; Trẫm sở dĩ thống ngự được bốn phương, khu trục động loạn, không có khanh không thể được ”.


Hà Tông Quyền – bước đường hoạn lộ gập ghềnh – kỳ 2: Cuộc đời trắc trở, cái chết đau thương

Cuộc đời trắc trở, cái chết đau thương 

Vua Minh Mạng.

Ba bốn năm lại bị một lần quở trách

Hà Tông Quyền giỏi về thù tiếp vâng mệnh, lại thông thạo thơ văn, được nhà vua khen không ngớt. Lại cùng với bọn Thân Văn Quyền, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Kim Bảng, Nguyễn Quốc Cẩm, Trần Danh Phi, Nguyễn Tán, Nguyễn Bá Thân vào Nội các.

Năm 1833, ông được thăng làm Hữu Thị lang bộ Công; năm 1835, làm Tham tri bộ Lễ, vẫn coi việc Nội các. Đến năm 1839, ông được thăng làm Tham tri bộ Lại sung đại thần Viện cơ mật.

Bước đường hoạn lộ của Hà Tông Quyền quá đỗi gập ghềnh, cứ ba bốn năm lại bị một lần quở trách hoặc giáng phạt với lý do không đâu vào đâu.

Ví như chuyện nhầm “Thanh Xuyên” thành “Thanh Châu”, hay như chuyện ông bị phạt 3 tháng lương chỉ vì một lẽ rất kỳ cục.

Số là năm 1834, có khoa thi Hương, các quan chấm trường Hà Nội lấy đỗ 37 cử nhân. Nhưng khi bài vở chuyển về kinh duyệt thì 4 người bị truất xuống bậc tú tài vì văn tầm thường và một người bị hỏng tuột do bài phú trùng vần. Hai viên chánh và phó chủ khảo bị giáng 3 cấp.

Người có trách nhiệm tổ chức các kỳ thi là Thượng thư bộ Lễ Phan Huy Thực cũng bị giáng chức với lý do thiếu sáng suốt trong khi lựa chọn quan trường. Và kỳ cục thay, ông cũng bị phạt 3 tháng lương vì cái tội là… bạn của quan Thượng thư!

Năm 1839, Hà Tông Quyền mất đột ngột khi mới 41 tuổi, được phong hàm Thượng thư bộ Lại. Về việc này, có tài liệu viết rằng, lúc bấy giờ vào cuối triều, vua Minh Mạng định chọn người kế vị, nên họp các quan trọng thần và Hoàng thân quốc thích đến bàn.

Vì được tín nhiệm, nên trong buổi họp nhà vua đích thân hỏi ý kiến Hà Tông Quyền. Ông bắt buộc phải trả lời: – Xin Bệ hạ chọn Hoàng hậu trước; một khi Hoàng hậu được đặt, tức người kế vị đã có.

Chết mất xác

Cũng cần nói thêm rằng, triều Nguyễn theo chính sách triệt để độc tài: không đặt Tể tướng, kỳ thi Ðình không lấy Trạng nguyên, trong cung chưa lập Hoàng hậu. Vì Tể tướng, Trạng nguyên, Hoàng hậu quá cao, có khả năng lấn át vua. Nên khi đã chọn một bà phi làm Hoàng hậu, thì con bà đương nhiên được làm vua.

Câu nói chung chung của Hà Tông Quyền tưởng thoát được sự hận thù của các hoàng tử đang có ý giành ngôi báu; nhưng không ngờ lại gây sự giận dữ bởi một ông Hoàng em vua, vì một khi đã chọn Hoàng hậu, thì em vua hết đường hy vọng.

Ông Hoàng này là Kiến an công Ðài, con út của Hoàng Thái hậu, mẹ đẻ vua Minh Mạng, nên rất được cưng chiều. Ðang ôm niềm hy vọng được anh ruột nhường ngôi, thì trong buổi họp nghe Hà Tông Quyền nói như vậy, chẳng khác gì bị dội gáo nước lạnh vào mặt. Tan họp, vị Hoàng thân này mời Hà Tông Quyền đến nhà, mời uống rượu, rồi lấy chuỳ đánh vỡ đầu, vứt xác trôi sông…

Sau đó Kiến an công vào triều chịu tội và nói: – Tông Quyền rất nịnh, thần đã giết và chôn rồi. Khi vua biết thì mọi sự đã rồi, vì nể mẹ đành phải khoan thứ cho em, cho lụa bạch áo quan khâm liệm, ban cho tiền; mệnh quan dùng thuyền đi biển chở về quê an táng.

Năm sau đến Hà Nội, các quan tỉnh tế cúng. Quyền không có nhà thờ, vua cho tiền xây cất. Ðến năm Ất Tỵ (1845), con cháu làm lễ cải táng, mở hòm ra chỉ thấy quan tài không, bèn đến kinh đô tâu; có chiếu chỉ rằng: “Tử thi bị tiêu hủy mau, nên như vậy.”

Hà Tông Quyền – bước đường hoạn lộ gập ghềnh – kỳ 3: Hai lần cứu vua Minh Mạng

Hai lần cứu vua Minh Mạng nhờ óc thông minh và tài phán đoán, Hà Tông Quyền vua coi là người “Triều đình không thể một ngày thiếu”.

Minh Mệnh chính yếu – cuốn sách Hà Tông Quyền làm chủ biên.

Những tác phẩm để đời

Hà Tông Quyền đã để lại một công trình sáng tác khá đồ sộ, về chữ Hán có: Nam du ; Tốn Phủ thi tập; Hà Tốn Phủ thi tập; Liễu Đường văn tập ; Thăng Long tam thập vịnh; Dương mộng tập còn có tên là Mộng dương thi tập. Đây là tập thơ ông làm trong chuyến đi công cán ở Nam Dương. Ngoài ra, ông còn là Chủ biên bộ sách Minh Mạng chính yếu (năm 1837).

Về chữ Nôm có: Vịnh Kiều tam thập thủ. Đây là tập thơ hưởng ứng cuộc thi vịnh Kiều do vua Minh Mạng khởi xướng năm 1830. Ngoài ra, theo Từ điển bách khoa Việt Nam, thì ông còn có: Một tập Vịnh Kiều gồm 15 bài thất ngôn tứ tuyệt, và một tập Tập Kiều gồm 15 bài thất ngôn tứ tuyệt.

Thơ Hà Tôn Quyền có bài lạc quan, một phần vì cuộc đời ông sớm thành đạt và được nhà vua trọng dụng… Nhưng đi sâu vào, nhiều bài thơ của ông cho thấy một nỗi niềm, có khi hơi chua xót, có khi trở thành giọng triết lý và thoáng một tâm sự cô đơn…

Đặc biệt, khi bị vua cách chức, buộc đi “dương trình hiệu lực” thì tiếng nói ưu uất càng bộc lộ rõ … Một số bài thơ khác phản ánh cuộc sống thanh đạm của tác giả. Nhưng trước sau vẫn cố gắng giữ lấy nếp sống thanh cao và phong cách cứng cỏi, không tự hạ thấp mình…

Nói về Mộng dương tập của ông, Từ điển bách khoa Việt Nam viết:… một số bài trong đó tỏ ý chán nản, băn khoăn về lẽ hành tàng, xem cuộc đời như giấc mộng.

Trong bài Khốc Đặng Thuận Xuyên (Khóc Đặng Thuận Xuyên), ông viết: Thán tức thử nhân chung thử địa – Tiêu điều đồng đạo cách đồng thì – Khả kham vãng giả hoàn lai giả – Tuy vị quân bi dã tự bi – Trùng dương mộng đoạn Ba-thành nguyệt – Thiên cổ danh lưu Thái học bi – Hậu tử hữu hoài không cảnh cảnh – Biên chu thiên đại dục giai thùy.

Dịch nghĩa: Đáng than thở cho người này vì đã mất ở đất này! Là người đồng đạo lại đồng thời, nghĩ càng hiu quạnh! Ngán nỗi người đi qua rồi, người sau lại đến – Tuy thương ông, mà cũng tự thương mình. Ngoài trùng biển cả, giấc mộng đời đã dứt hẳn dưới vầng trăng Ba-thành – Nghìn năm còn lưu danh trên tấm bia nhà Thái học, Người hậu tử này trong lòng luống những canh cánh không nguôi – Chiếc thuyền con buông trôi trong trời đất, biết cùng ai tá?

Triều đình không thể một ngày thiếu Quyền

Tông Quyền không phải là loại kẻ sĩ chỉ để lại văn chương suông trên đời, óc thông minh và tài phán đoán của ông đã cứu vua Minh Mạng hai lần.

Lúc bấy giờ do chính sách cứng rắn của nhà vua, khiến các nước Tây phương giận dữ. Lợi dụng kỹ thuật cao, họ đã chế hoả pháo bí mật cài vào áo và đèn cầy để làm quà, một lần vào năm Minh Mạng thứ 11 (1830) nhân ghé tàu vào bến cảng, cho gửi quà dâng hiến vua. Nhất cử lưỡng tiện, chắc mục đích họ vừa muốn cảnh cáo lại âm mưu ám sát nhà vua, nhưng đã được Hà Tông Quyền phát giác trước.

Khi thương gia Tây Dương tiến áo cẩm bào, giá ngàn vàng; Quyền dâng lời: – Ðồ lạ của nước ngoài, không nên nhẹ dạ tin; xin cho tử tù mặc thử. Quả thật, khi gài nút thì lửa cháy, tù nhân bị lửa đốt chết. Nhà vua kinh hãi than phiền.

Sau đó có một nước khác tiến cặp 4 cây sáp linh cỡ lớn; Quyền xin bẻ 1 cây làm hai, thì ở trong chứa hoả pháo và thuốc khói mù, nhà vua lấy làm kỳ dị về tài năng, thường nói rằng: “Triều đình không thể một ngày thiếu Quyền! ”Lại bảo rằng: “ Tông Quyền về chính sự, Tế Mỹ về văn học, Nguyễn Công Trứ về thao lược; thật không thẹn với danh tiếng khoa bảng”. Nhà vua không chỉ ban ơn riêng, mà còn cho vời mẹ Quyền vào kinh đô, để tìm cách ưu đãi.

Ghi nhận công lao Hà Tông Quyền, TP HCM và Thành phố Đà Nẵng có con đường mang tên ông. Phan Thanh Giản có đôi câu đối điếu ông: Khai khoa sự nghiệp suy tiền bối – Tuyệt thế văn chương tất đại gia.

 Theo Nguyễn Thành Hữu- Khoa học đời sống

Nhân vật khác:

Thân thế và sự nghiệp của Tán tương quân vụ Hà Công Cấn

Thân thế và sự nghiệp của Tán tương quân vụ Hà Công Cấn

Là một tướng lĩnh Cần Vương trong phong trào Cần Vương của Nguyễn Quang Bích- Tán tương quân vụ Hà Công Cấn sau 100 năm vẫn được người dân trong vùng và thân tộc họ Hà tôn kính và tưởng nhớ về lòng yêu nước thương dân với tài năng và nhân cách lớn...

Hà Tông Huân

Hà Tông Huân

Hà Tông Huân (1697-1766) đỗ bảng nhãn khoa thi đình năm Giáp thìn (1724), niên hiệu Bảo Tháithứ 5. Vì khoa thi này không có trạng nguyên và thám hoa, nên ông đỗ thủ khoa (Đình nguyên Bảng nhãn). Người đương thời vẫn quen gọi ông là ông Bảng Vàng, tức là bảng nhãn làng Vàng. Quê ông ở làng Kim Vực (nay thuộc xã Yên Thịnh, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hoá).
Hà Đặc - Hà Chương

Hà Đặc - Hà Chương

Thế kỷ XIII, dân tộc ta đã ba lần đương đầu và đánh bại đội quân xâm lược khét tiếng của đế quốc Mông - Nguyên khi đó đang chiến thắng khắp nơi trên thế giới. Nhưng vó ngựa xâm lăng của chúng đã phải khuỵu xuống trước sức mạnh của ...
Tướng Hà Vi Tùng

Tướng Hà Vi Tùng

Hà Vi Tùng tên khai sinh là Hà Đình Tùng, quê phố Xuân Hòa, thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Quê gốc là Đa Phúc, xã Sài Sơn, tỉnh Sơn Tây nay thuộc Quốc Oai, Hà Nội. Ông sinh ngày 8-2-1925, mất tại Nha Trang ngày 19-12-1994. Nhân dịp kỷ ...
Hà Đức Ân

Hà Đức Ân

Thượng tướng, Dương Lộc hầu Hà Đức Ân
 Ngài tiền hiền Hà Đức Ân từng là Đặc tấn Thượng tướng quân lộc dương hầu, vốn sinh thành ở Thanh Hóa từ khoản năm 1533, người đã có công kiến lập xã hiệu và sau đó đã cử Đặc tấn Tòng phu Võ Văn Định làm Xã trưởng, những xã hiệu này gắn với 6 làng từ Phong Nhứt đến Phong Lục (Lục giáp). Hiện nay lăng mộ được táng tại xứ đất Thượng Thổ (thôn Phong Ngũ Tây, xã Điện Thắng Nam).
Hà Tông Chính

Hà Tông Chính

Đại tướng quân triều Trần Hà Tông Chính
Hà Tông Chính (1366 - 1413)
Hà Tông Chính lúc nhỏ gọi là Hà Dư, sinh năm 1366, là con trai của tướng quân Hà Mại và bà Lê Thị Quý Yên. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình cha là tướng biên ải, được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, cho học hành tử tế, đặc biệt được cha rèn luyện đức, tài nên Hà Tông Chính nhanh chóng trưởng thành và cùng cha tham gia chống giặc Chiêm Thành bảo vệ được bờ cõi phía Nam đất nước
Hà Công Thái

Hà Công Thái

Quận công Hà Công Thái
Hà Công Thái là người sớm nhận ra tình hình diễn biến của thời cuộc. Lúc ấy Hoàng đế Quang Trung đã qua đời, người kế nghiệp không đủ tầm để cai quản đất nước. Ở Bắc Hà, dân bị đói khát, trộm cướp liên miên. Triều đình chia sẻ, công thần giết hại lẫn nhau, thế nước nghiêng ngả, lòng người ly tán, sớm muộn nhà Tây Sơn cũng phải chấm dứt vai trò lịch sử.
Hà Vị Uyên

Hà Vị Uyên

Tướng quân Hà Vị Uyên thời Nhị vua Hai Bà Trưng
Đình Thôn thượng, Dương Hà, thờ phụng danh tướng Hà Vị Uyên thời Nhị vua Hai Bà Trưng
Hà Công Cấn

Hà Công Cấn

Tướng quân Hà Công Cấn
Hà Công Cấn là một danh tướng trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp do Hiệp thống Bắc Kỳ Nguyễn Quang Bích lãnh đạo trên vùng thượng du Bắc Kỳ vào cuối thế kỷ XIX. Ông đã cùng với các văn thân, sỹ phu yêu nước dưới sự chỉ huy của Nguyễn Quang Bích đã đứng ra phất cờ tập hợp nghĩa quân đứng lên khởi nghĩa chống Pháp, ngay từ những năm 1873, khi chưa có chiếu Cần Vương.
HÀ DI KHÁNH

HÀ DI KHÁNH

Phò Mã HÀ DI KHÁNH
Ông là Thái phó, Tri châu Vị Long thuộc Chiêm Hoá, Tuyên Quang ngày nay và là chủ nhân của tấm bia cổ chùa Bảo Ninh Sùng Phúc do Lý Thừa Ân thực hiện năm 1107. Thân phụ ông đã từng cầm quân đánh giặc Tống, lập công trong chiến dịch “Tiên phát chế nhân” táo bạo dưới sự chỉ huy tài tình của Thái uý Lý Thường Kiệt.
Hà Công Trình

Hà Công Trình

Tiến sĩ, Tế tửu Quốc Tử Giám Hà Công Trình
Hà Công Trình (1434 -1511) sinh tại làng Đông Rạng, xã Đông Tỉnh, huyện Thiên Lộc, tỉnh Nghệ An (nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Năm Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466), đời vua Lê Thánh Tông, ông thi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ. Ban đầu ông nhận một chức quan huyện, sau nhờ tài năng, đức độ, được thăng đến thượng thư (tương đương bộ trưởng) lần lượt ở các bộ Binh, Hình, Công; Nhập thị Kinh Diên (giảng kinh sách cho vua) và kiêm chức Tế tửu (hiệu trưởng) Quốc Tử Giám.
Cụ Hà Thược

Cụ Hà Thược

Hà Ngại
Cụ Hà Thược, tự là Hà Ngại sinh năm 1890 ở làng Phú Quý – nay là thôn Nakhom xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Cụ là hậu duệ đời thứ 14 dòng Hà Phước ở Quảng Nam. Sinh trưởng trong gia đình nhà nghèo, từ nhỏ Hà Thược đã rất chăm học
HÀ MẠI

HÀ MẠI

Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Hà Mại

Tướng Quân Hà Mại, tự Tông Hiểu, còn có biểu tự khác là Tử Công, sinh ngày 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (11/5/1334), niên hiệu Khai Hựu năm thứ 6, triều Trần Hiến Tông, trong một gia đình có vị thế ở Thăng Long. Thuở nhỏ vốn có tư chất thông minh, được gia đình nuôi dạy, học hành tử tế, được phụ thân cho học tập binh thư, luyện tập võ nghệ, cung kiếm, nên ông có một thân hình cường tráng, sức khỏe hơn người, ý chí kiên cường, giỏi bài binh bố trận và có biệt tài về phong thủy. 

 

HÀ TÔN MỤC

HÀ TÔN MỤC

CÔNG THẦN HÀ TÔN MỤC
Những năm cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, chế độ tập quyền quân chủ chuyên chế Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Nhà Lê suy vong, quyền lực rơi vào tay họ Trịnh. Xã hội rối loạn, đạo lý suy vi. 
Hà Huy Tập

Hà Huy Tập

Cố Tổng Bí Thư Hà Huy Tập
Đồng chí Hà Huy Tập sinh ngày 24-4-1906 tại làng Kim Nặc, xã Cẩm Hùng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, Hà Huy Tập đã sớm bộc lộ sự hiếu học. Năm 1919 Hà Huy Tập đã học xong bậc tiểu học. Sau 5 năm miệt mài đèn sách, Hà Huy Tập đã tốt nghiệp hạng ưu trường quốc học Huế.