HÀ TỘC - HỘI ĐỒNG HỌ HÀ VIỆT NAM
0983699386
HÀ MẠI

HÀ MẠI

Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Hà Mại
Hà Mại, tự Tông Hiểu, còn có biểu tự khác là Tử Công, sinh ngày 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (11/5/1334), niên hiệu Khai Hựu năm thứ 6, triều Trần Hiến Tông, trong một gia đình có vị thế ở Thăng Long. Thuở nhỏ vốn có tư chất thông minh, được gia đình nuôi dạy, học hành tử tế, được phụ thân cho học tập binh thư, luyện tập võ nghệ, cung kiếm, nên ông có một thân hình cường tráng, sức khỏe hơn người, ý chí kiên cường, giỏi bài binh bố trận và có biệt tài về phong thủy. 

            Năm Tân Mão (1351), triều Trần Dụ Tông, niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 11, nhân có cuộc tuyển võ sĩ, ông tham dự và được tuyển dụng. Sau đó, ông được giáo huấn luyện và chỉ huy một đội quân cấm vệ, bảo vệ triều đình. 

            Tháng 3 năm Bính Thân (1356), ông chỉ huy một đội cấm vệ quân đi hộ giá hai vua: Thái Thượng hoàng Trần Minh Tông và Thượng Hoàng Trần Dụ Tông đi tuần tra biên giới phía Nam, đến Nghệ An, lập hành cung tại vùng Hà Hoa để kiểm tra tình hình, bố trí phòng tuyến chống quân Chiêm Thành, thường đến cướp phá vùng đất này. Hà Hoa thời đó nay thuộc đất của các huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và thị xã Kỳ Anh của tỉnh Hà Tĩnh. Lúc bấy giờ, lị sở  Nghệ An đóng ở Dinh Cầu, nay thuộc đất thị xã Kỳ Anh. Trong thời gian này ông đã gặp và kết hôn với bà Lê Thị Quý Yên, con gái thứ ba của cụ Lê Quý Thọ là xã trưởng tại địa phương. Vì quê của Hà Mại ở xa, nên gia đình bên vợ tạo điều kiện để vợ chồng sinh cơ lập nghiệp ở đây.

           Từ năm 1356, ông được bổ làm quan trấn ải vùng biên giới phía nam nước Đại Việt. Trong thời gian này vùng biên giới Đại Việt luôn bất an vì giặc Chiêm Thành quấy phá liên miên nên ông đã chuyển gia đình về sinh sống ở thôn Hào Mai, xã Cẩn Tiết, huyện Thạch Hà (nơi cách xa biên giới). Năm 1366, vợ chồng ông sinh con trai đặt tên Hà Dư, khi lớn lên đặt tên tự là Tông Chính
         Chính sử Đại Việt chép rằng, từ khi Chế Bồng Nga lên làm vua nước Chiêm Thành (1360), đã lấy lý do đòi lại đất do vua Chiêm là Chế Mân dùng hai châu Ô và Lý cho Đại Việt để cưới Công chúa Huyền Trân (1306), phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt. 

         Trong những năm 1361 đến 1391 xung đột giữa Đại Việt và Chiêm Thành xảy ra 14 lần. Đặc biệt có 5 lần là các năm 1361, 1362, 1365, 1366, 1368, quân Chiêm Thành đánh vào vùng châu Hóa và vùng ven biển Nghệ An, vốn là địa bàn tướng Hà Mại quản lĩnh. Trong 5 lần này có 3 lần vào các năm 1361, 1362, 1366, chúng bị quân dân Đại Việt do tướng Hà Mại chỉ huy chặn đánh, trong đó, đặc biệt, có 2 lần là các năm 1365, 1368, quân dân Đại Việt đã chặn đánh quyết liệt, khiến cho chúng bị thiệt hại nặng phải rút chạy về nước.          
 
Tuy nhiên, sử Việt cũng ghi nhận 4 lần quân Chiêm Thành vượt biển đánh phá, cướp bóc kinh thành Thăng Long, gây cho Đại Việt những thiệt hại hết sức nặng nề.                                                                                                          
Khi Trần Duệ Tông lên ngôi vào tháng 11 năm 1370, trước sự uy hiếp thường xuyên của quân Chiêm Thành, ông ra sức chuẩn bị mọi điều kiện để củng cố vương triều, chấn hưng quốc gia Đại Việt vốn đã bị tàn phá và suy yếu dưới thời Trần Dụ Tông và Dương Nhật Lễ, chinh phạt Chiêm Thành nhằm dẹp yên mối họa từ phương Nam. Tiếp tục đường lối của các tiên vương, trước hết, Trần Duệ Tông tổ chức nhiều cuộc tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Đại Việt sử ký thư (Kỷ nhà Trần) chép: "Ất Mão (năm 1375),... xuống chiếu chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyện tập nghề võ, thông hiểu thao lược, thì không cứ là tôn thất đều làm tướng coi quân, đồng thời cho ra khỏi quân ngũ những người lính già cả, ốm yếu, bệnh tật..."

Năm 1374, nhà vua tổ chức thi Đình tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Những nho sĩ thời đó như Đào Sư Tích (Trạng nguyên), Lê Hiến Phủ (Bảng nhãn), Trần Đình Thám (Thám hoa)... đều xuất thân từ bình dân, không trong hàng ngũ hoàng tộc. Ông rất coi trọng nho sỹ, coi đó là đại diện văn hiến nước nhà, nên cho ăn yến, áo xấp, tước phẩm...Trần Duệ Tông còn rất chú trọng đề cao quy định riêng của triều đại. Ông hạ lệnh cho quân dân không được mặc áo kiểu người phương Bắc và không được bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm – Lào.     

Đặc biệt, Duệ Tông Hoàng đế rất chú trọng việc tổ chức, củng cố quân đội, sắp xếp lại các đơn vị hành chính vùng biên cương phía Nam. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Ất Mão, [ Long Khánh] năm thứ 3 [1375], (Minh Hồng Vũ năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, lấy Khu mật viện đại sứ Lê Quý Ly làm tham mưu quân sự. Xuống chiếu chọn các quan viên biết luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược, thì không cứ là người tôn thất, đều cho làm tướng coi quân. Đổi châu Diễn thành lộ Diễn Châu, châu Hoan thành các lộ Nhật Nam, Nghệ An nam, bắc, trung. Đổi Lâm Bình thành phủ Tân Bình”. Cũng trong dịp này, tướng Hà Mại được sai cùng các trấn thần khác đốc thúc dân phu các trấn phía Nam mở mang đường xá, giao thông để chuẩn bị cho cuộc viên chinh. Sử chép: “Sai Đào Lực Đinh và Hà Tử Công đốc suất người Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình đắp sửa đường sá từ Cửu Chân đến Hà Hoa 3 tháng thì xong.” 

Tháng 12 năm Bính Thân (1376), niên hiệu Long Khánh thứ 4, vua Trần Duệ Tông trực tiếp thống lĩnh 12 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Trận này nhà vua chủ quan, không chịu nghe lời can ngăn của các tướng lĩnh nên đã bị thất bại nặng nề. Vua, một số tướng lĩnh và ngót chục vạn quân bị chết trận. Lúc bấy giờ, đội quân của tướng Hà Mại đang được giao ở lại xây dựng phòng tuyến  của vùng đất cực nam Đại Việt để đề phòng quân Chiêm Thành sang xâm lấn, cướp phá. Sau khi chiến dịch nam chinh của vua Trần Duệ Tụng thất bại (cuối năm 1376, đầu 1377), quân Chiêm Thành lại càng hung hăng, tàn bạo, tướng Hà Mại đã nhiều lần chỉ huy quân dân Đại Việt nơi biên cương đánh tan các cuộc xâm lấn, cướp phá của chúng, giữ vững an ninh cho quê hương đất nước, cuộc sống yên lành của nhân dân. Với công lao to lớn đó, tướng Hà Mại đã được triều đình nhà Trần phong chức Phụ quốc Thượng tướng quân, tước Thượng Vị hầu, giao cho ông toàn quyền trấn thủ Nghệ An.  

     Để có hậu phương an toàn cho gia đình trong thời kỳ chiến trận liên miên với Chiêm Thành vào những năm 1376, 1377, 1378 và phòng khi có sự biến, ông đã lập mật thất tại vùng phía nam núi Hồng Lĩnh, đưa vợ con và gia thuộc về sống ở đó. Mật thất ấy nằm trong khoảng khu vực đập Cu Lây và xóm Cứu Quốc, thuộc địa phận xã Thuần Thiện, huyện Can Lộc ngày nay. Sử Việt đương thời cũng ghi nhận rằng những năm cuối của triều Trần suy vi, loạn lạc. Trong triều các thế lực nổi lên tranh giành quyền bính dữ dội, dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của nhà Trần. Trong cuộc tranh bá đồ vương đó, một số ông vua và không ít trọng thần trong triều cũng như nhiều quan chức các viễn trấn đã bị giết. Việc truy lùng, chém giết, tàn sát liên tục người của các phe phái trong mấy năm liền làm cho không khí xã hội luôn căng thẳng khắp chốn thị thành cũng như thôn quê.

Trước thực trạng đó, lại do tuổi đã cao, tướng Hà Mại đã xin trí sĩ vào khoảng năm 1396 – 1398, về sống cùng gia đình ở mật thất để tránh nạn. Cuối năm 1406 đầu năm 1407, khi giặc Minh xâm lược nước ta, Hà Mại đã lập căn cứ kháng chiến chống quân Minh tại khu vực mật thất của gia đình mình. Năm 1408, một số tướng lĩnh trung thành với nhà Trần như Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân và con trai tướng Hà Mại là Hà Tông Chính đã phò Trần Ngỗi, tức Giản Định đế, lên làm vua để lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Minh (lịch sử gọi là nhà Hậu Trần).

     Mùa đông năm Mậu Tý (1408), ngày 14 thỏng 2 dưới sự lãnh đạo của vua Trần (Trần Ngỗi), Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân chỉ huy nghĩa quân tổ chức trận đánh nổi tiếng tại Bô Cô, nay thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Đại tướng Hà Tông Chính cùng con trai là  tướng Hà Sản (con trai thứ 2 của Hà Tông Chính) tham gia trận đánh này. Trận đánh diễn ra một cách ác liệt, quân ta đại thắng, tiêu diệt hơn 10 vạn quân Minh. Nhưng sau đó không lâu do sự gièm pha của gian thần,Trần Ngỗi đã ra lệnh giết hại Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân hai trụ cột quan trọng nhất của lực lượng kháng chiến

Trước tình thế đó, Hà Tông Chính và Hà Sản trở về vùng Thiên Quan (thuộc đất tỉnh Ninh Bình ngày nay) lánh ẩn một thời gian. Sau đó, hai ông về Nghệ An cùng Phụ quốc Thượng tướng quân Hà Mại củng cố, mở rộng chiến khu Nam Nghệ An (tức Hà Tĩnh ngày nay), trung tâm là căn cứ Hồng Lĩnh, đồng thời ra sức tập hợp lực lượng, tổ chức động viên các lực lượng kháng chiến lớn nhỏ trong vùng đoàn kết chống quân xâm lược nhà Minh.  

     Năm 1410, trong lúc cuộc kháng chiến của quân và dân Đại Việt đang ở giai đoạn cam go, thì lão tướng Hà Mại lâm bệnh, lại do tuổi cao sức yếu, nên ông đã từ trần vào ngày 20 tháng 8 năm Canh Dần (18/9/1410) tại căn cứ Hồng Lĩnh, hưởng thọ 77 tuổi. Mộ phần của ông được táng tại vùng núi Phượng Hoàng, thuộc dãy Hồng Lĩnh.     

      Hà Mại là một võ quan yêu nước thương dân, suốt đời gắn bó và tuyệt đối trung thành với triều đại nhà Trần, có nhiều công lao trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt. Vì thế, ông đã được các triều vua cuối của nhà Trần ghi công ban thưởng chức tước, bằng sắc; được các triều đại kế tục phong thần và gia phong, gia ban mỹ tự. Trong một đạo sắc thời vua Duy Tân gia phong cho các vị thần họ Hà ở nhà thờ dòng họ thuộc xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tướng quân Hà Mại được gia phong là Đoan túc Dực bảo trung hưng Phụ quốc Thượng Vị hầu Hà tướng công chi thần. Nội dung đạo sắc ấy như sau (phiên âm): “Sắc chỉ Hà Tĩnh tỉnh, Can Lộc huyện, Tỉnh Thạch xã tòng tiền phụng sự Tuấn Lương Dực bảo trung hưng Lê triều Bính Tuất khoa Tiến sĩ xuất thân Binh Hình nhị bộ Thượng thư Hà phủ quân chi Thần, Đoan túc Dực bảo trung hưng Lê triều Mậu Thìn khoa Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân Thượng thư Hà phủ quân chi Thần, Trừng trạm Dực bảo trung hưng Đồng Giang linh ứng chi Thần, Đoan túc Dực bảo trung hưng Phụ quốc Thượng vị hầu Hà tướng công chi Thần. Tiết kinh ban cấp sắc phong chuẩn kỳ phụng sự. Duy Tân nguyên niên, tấn quang đại lễ, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật. Đặc chuẩn y cựu phụng sự dụng chí quốc khánh, nhi thân tự điển.

Khâm tai!
Duy Tân tam niên bát nguyệt thập nhất nhật.”


 Bản dịch nghĩa như sau: “Sắc chỉ xã Tỉnh Thạch, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, phụng sự từ trước các vị Thần là Tuấn Lương Dực bảo trung hưng Lê triều Bính Tuất khoa Tiến sĩ xuất thân, Binh Hình nhị bộ Thượng thư Hà phủ quân chi Thần; Đoan túc Dực bảo trung hưng Lê triều Mậu Thìn khoa Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân Thượng thư Hà phủ quân chi Thần; Trừng trạm Dực bảo trung hưng Đồng Giang linh ứng chi Thần (Hà Tông Chính); Đoan túc Dực bảo trung hưng Phụ quốc Thượng Vị hầu Hà tướng công chi Thần (Hà Mại). Đến năm Duy Tân thứ nhất (1907), nhân dịp lễ lớn lên ngôi, ban cho chiếu báu, tỏ rõ ân sâu, theo lễ cần tăng thêm phẩm trật. Đặc biệt chuẩn cho thờ phụng như cũ, liệt vào ngày vui lớn tế lễ của nước và lưu trong điển lệ thờ cúng. Kính vậy thay!
    Ngày 11 tháng 8 năm Duy Tân thứ 3 (1909).”

     Sau khi Tướng quân Hà Mại mất, Đại tướng Hà Tông Chính và con trai thứ là tướng Hà Sản tiếp tục chống giặc Minh. Mùa hè năm 1413, trong một trận đánh không cân sức với giặc, tướng Hà Tông Chính bị trọng thương, khi được bộ hạ đưa về đến làng Hào Mai, xã Cẩn Tiết thì mất (đây là nơi một thời gian dài gia đình tướng quân Hà Mại từng sinh sống và xem như là quê hương thứ hai). Thời kỳ này con trai trưởng của Đại tướng Hà Tông Chính là Hà Nho (anh tướng Hà Sản) cùng gia đình về ở ẩn tại vùng đồng lầy phía tả ngạn sông Nghèn, nay thuộc xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đây, sau đó trở thành nơi sinh cơ lập nghiệp của con cháu họ Hà, dòng Tướng quân Hà Mại cho tới ngày nay.

     Với công lao đã được sử sách ghi lại như thế, ngày 23 tháng 9 năm 2010, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh đã ra quyết định số 2777/QĐ-UBND, công nhận và cấp bằng Di tích lịch sử - Văn hóa Khu lăng mộ tướng quân Hà Mại tại thôn Cứu Quốc, xã Tuần Thiện, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

Từ một võ quan được cử vào trấn thủ miền biên viễn phía Nam, tướng quân Hà Mại đã lập nhiều công lao với sơn hà, xã tắc; đồng thời, ông cũng lập ra dòng họ Hà Nghệ Tĩnh lớn mạnh, hun đúc được nhiều truyền thống tốt đẹp, thời nào cũng đóng góp cho dân tộc, đất nước nhiều nhân vật kiệt xuất làm rạng rỡ cho dòng tộc, quê hương, đất nước. Trong các thế hệ hậu duệ họ Hà, có những danh nhân nổi tiếng như Hoàng bảng Đại tướng quân Hà Tông Chính; Hoàng giáp Thượng thư bộ Binh, bộ Hình, bộ Công, Tế tửu Quốc tử giám, Nhập thị Kinh diên Hà Công Trình; Tiến sĩ Thượng thư bộ Công, Bồi tụng Hình bộ Tả thị Lang, Phủ doãn phủ Phụng Thiên, tước Hoan Lĩnh tử Hà Tông Mục; Bảng nhãn Hà Tông Huân, Tham tụng, Đại tướng Thượng thư bộ Binh, Ngũ lão đại thần, tước Kiểu quận công);Tiến sĩ Thượng thư, Kiện tiệp tài tử, nhà thơ Hà Tông Quyền; Thượng thư, Đại học sĩ Hà Duy Phiên; Phó bảng Hà Văn Đại và nhiều nhân vật tiêu biểu khác.Thời Cận đại có Nghi (Xuân) thứ Hà Văn Mỹ, thuộc tướng của Phan Đình Phùng, giai đoạn Cần vương.

     Thời hiện đại có TBT Đảng CSVN Hà Huy Tập; Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh Hà Quang Tập (1941), Hà Uyên (1949); các UVTW Đảng Hà Huy Giáp, Hà Xuân Trường, Hà Học Trạc. Bên cạnh các chính khách, thời hiện đại, họ Hà có nhiều nhà khoa học nổi tiếng như PGS.TS.TTUT.BS Hà Văn Ngạc; GS.NGND Hà Văn Tấn; GS.TS.TTND.BS Hà Văn Mạo; GS.TSKH.NGND Hà Huy Khôi; GS.TS Hà Học Ngụ (Ngô); PGS Hà Học Hợi; GS.VS Hà Huy Khoái; (GS.TS.BS TND Hà Huy Tiến; Nhà Ngoại giao nổi tiếng Hà Huy Tâm; Đại sứ Hà, PCN Ủy ban Đối ngoại QH Hà Huy Thông); TPGS.TSKH Hà Huy Vui; PGS.TS Hà Văn Hùng; GS.TS.TTND.BS Hà Văn Quyết; PGS.TS Hà Thị Mỹ Hương; PGS.TS Hà Minh Hùng; PGS.TS Hà Thị Anh Đào; PGS.TS Hà Mai Hiên,...Ngày nay, con cháu họ Hà Nghệ Tĩnh trên khắp mọi miền đất nước đã và đang kết nối với nhau ngày càng bền chặt, phát huy truyền thống dòng tộc, quê hương ra sức phấn đấu đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh./.

Nhân vật khác:

Thân thế và sự nghiệp của Tán tương quân vụ Hà Công Cấn

Thân thế và sự nghiệp của Tán tương quân vụ Hà Công Cấn

Là một tướng lĩnh Cần Vương trong phong trào Cần Vương của Nguyễn Quang Bích- Tán tương quân vụ Hà Công Cấn sau 100 năm vẫn được người dân trong vùng và thân tộc họ Hà tôn kính và tưởng nhớ về lòng yêu nước thương dân với tài năng và nhân cách lớn...

Hà Tông Huân

Hà Tông Huân

Hà Tông Huân (1697-1766) đỗ bảng nhãn khoa thi đình năm Giáp thìn (1724), niên hiệu Bảo Tháithứ 5. Vì khoa thi này không có trạng nguyên và thám hoa, nên ông đỗ thủ khoa (Đình nguyên Bảng nhãn). Người đương thời vẫn quen gọi ông là ông Bảng Vàng, tức là bảng nhãn làng Vàng. Quê ông ở làng Kim Vực (nay thuộc xã Yên Thịnh, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hoá).
Hà Đặc - Hà Chương

Hà Đặc - Hà Chương

Thế kỷ XIII, dân tộc ta đã ba lần đương đầu và đánh bại đội quân xâm lược khét tiếng của đế quốc Mông - Nguyên khi đó đang chiến thắng khắp nơi trên thế giới. Nhưng vó ngựa xâm lăng của chúng đã phải khuỵu xuống trước sức mạnh của ...
Hà Tông Quyền

Hà Tông Quyền

Tiểu sử Hà Tông Quyền là danh sĩ đời Minh Mạng (明命; 1820-1841), còn gọi ông là Hà Quyền, tự Tốn Phủ, hiệu Phương Trạch, biệt hiệu Hải Ông, quê ở Cát Động, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông nay là huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội, học trò cao sĩ Lê Huy Thân.Năm ...
Tướng Hà Vi Tùng

Tướng Hà Vi Tùng

Hà Vi Tùng tên khai sinh là Hà Đình Tùng, quê phố Xuân Hòa, thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Quê gốc là Đa Phúc, xã Sài Sơn, tỉnh Sơn Tây nay thuộc Quốc Oai, Hà Nội. Ông sinh ngày 8-2-1925, mất tại Nha Trang ngày 19-12-1994. Nhân dịp kỷ ...
Hà Đức Ân

Hà Đức Ân

Thượng tướng, Dương Lộc hầu Hà Đức Ân
 Ngài tiền hiền Hà Đức Ân từng là Đặc tấn Thượng tướng quân lộc dương hầu, vốn sinh thành ở Thanh Hóa từ khoản năm 1533, người đã có công kiến lập xã hiệu và sau đó đã cử Đặc tấn Tòng phu Võ Văn Định làm Xã trưởng, những xã hiệu này gắn với 6 làng từ Phong Nhứt đến Phong Lục (Lục giáp). Hiện nay lăng mộ được táng tại xứ đất Thượng Thổ (thôn Phong Ngũ Tây, xã Điện Thắng Nam).
Hà Tông Chính

Hà Tông Chính

Đại tướng quân triều Trần Hà Tông Chính
Hà Tông Chính (1366 - 1413)
Hà Tông Chính lúc nhỏ gọi là Hà Dư, sinh năm 1366, là con trai của tướng quân Hà Mại và bà Lê Thị Quý Yên. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình cha là tướng biên ải, được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, cho học hành tử tế, đặc biệt được cha rèn luyện đức, tài nên Hà Tông Chính nhanh chóng trưởng thành và cùng cha tham gia chống giặc Chiêm Thành bảo vệ được bờ cõi phía Nam đất nước
Hà Công Thái

Hà Công Thái

Quận công Hà Công Thái
Hà Công Thái là người sớm nhận ra tình hình diễn biến của thời cuộc. Lúc ấy Hoàng đế Quang Trung đã qua đời, người kế nghiệp không đủ tầm để cai quản đất nước. Ở Bắc Hà, dân bị đói khát, trộm cướp liên miên. Triều đình chia sẻ, công thần giết hại lẫn nhau, thế nước nghiêng ngả, lòng người ly tán, sớm muộn nhà Tây Sơn cũng phải chấm dứt vai trò lịch sử.
Hà Vị Uyên

Hà Vị Uyên

Tướng quân Hà Vị Uyên thời Nhị vua Hai Bà Trưng
Đình Thôn thượng, Dương Hà, thờ phụng danh tướng Hà Vị Uyên thời Nhị vua Hai Bà Trưng
Hà Công Cấn

Hà Công Cấn

Tướng quân Hà Công Cấn
Hà Công Cấn là một danh tướng trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp do Hiệp thống Bắc Kỳ Nguyễn Quang Bích lãnh đạo trên vùng thượng du Bắc Kỳ vào cuối thế kỷ XIX. Ông đã cùng với các văn thân, sỹ phu yêu nước dưới sự chỉ huy của Nguyễn Quang Bích đã đứng ra phất cờ tập hợp nghĩa quân đứng lên khởi nghĩa chống Pháp, ngay từ những năm 1873, khi chưa có chiếu Cần Vương.
HÀ DI KHÁNH

HÀ DI KHÁNH

Phò Mã HÀ DI KHÁNH
Ông là Thái phó, Tri châu Vị Long thuộc Chiêm Hoá, Tuyên Quang ngày nay và là chủ nhân của tấm bia cổ chùa Bảo Ninh Sùng Phúc do Lý Thừa Ân thực hiện năm 1107. Thân phụ ông đã từng cầm quân đánh giặc Tống, lập công trong chiến dịch “Tiên phát chế nhân” táo bạo dưới sự chỉ huy tài tình của Thái uý Lý Thường Kiệt.
Hà Công Trình

Hà Công Trình

Tiến sĩ, Tế tửu Quốc Tử Giám Hà Công Trình
Hà Công Trình (1434 -1511) sinh tại làng Đông Rạng, xã Đông Tỉnh, huyện Thiên Lộc, tỉnh Nghệ An (nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Năm Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466), đời vua Lê Thánh Tông, ông thi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ. Ban đầu ông nhận một chức quan huyện, sau nhờ tài năng, đức độ, được thăng đến thượng thư (tương đương bộ trưởng) lần lượt ở các bộ Binh, Hình, Công; Nhập thị Kinh Diên (giảng kinh sách cho vua) và kiêm chức Tế tửu (hiệu trưởng) Quốc Tử Giám.
Cụ Hà Thược

Cụ Hà Thược

Hà Ngại
Cụ Hà Thược, tự là Hà Ngại sinh năm 1890 ở làng Phú Quý – nay là thôn Nakhom xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Cụ là hậu duệ đời thứ 14 dòng Hà Phước ở Quảng Nam. Sinh trưởng trong gia đình nhà nghèo, từ nhỏ Hà Thược đã rất chăm học
HÀ TÔN MỤC

HÀ TÔN MỤC

CÔNG THẦN HÀ TÔN MỤC
Những năm cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, chế độ tập quyền quân chủ chuyên chế Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Nhà Lê suy vong, quyền lực rơi vào tay họ Trịnh. Xã hội rối loạn, đạo lý suy vi. 
Hà Huy Tập

Hà Huy Tập

Cố Tổng Bí Thư Hà Huy Tập
Đồng chí Hà Huy Tập sinh ngày 24-4-1906 tại làng Kim Nặc, xã Cẩm Hùng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, Hà Huy Tập đã sớm bộc lộ sự hiếu học. Năm 1919 Hà Huy Tập đã học xong bậc tiểu học. Sau 5 năm miệt mài đèn sách, Hà Huy Tập đã tốt nghiệp hạng ưu trường quốc học Huế.