HÀ TỘC - HỘI ĐỒNG HỌ HÀ VIỆT NAM
0983699386
Hà Tông Chính

Hà Tông Chính

Đại tướng quân triều Trần Hà Tông Chính
Hà Tông Chính (1366 - 1413)
Hà Tông Chính lúc nhỏ gọi là Hà Dư, sinh năm 1366, là con trai của tướng quân Hà Mại và bà Lê Thị Quý Yên. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình cha là tướng biên ải, được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, cho học hành tử tế, đặc biệt được cha rèn luyện đức, tài nên Hà Tông Chính nhanh chóng trưởng thành và cùng cha tham gia chống giặc Chiêm Thành bảo vệ được bờ cõi phía Nam đất nước

Khi lão t­ướng Hà Mại về h­ưu, Hà Tông Chính tiếp tục ở lại phò Trần chống Minh. Nối tiếp truyền thống dân tộc và truyền thống gia đình, ông là vị t­ướng luôn trung thành tận tụy với triều đình, m­ưu trí dũng cảm chiến đấu. Năm Bính Tý (1396), do có nhiều thành tích trong chỉ huy chiến đấu và xây dựng lực l­ượng, ông đư­ợc triều Trần phong Hoàng Bảng Đại t­ướng quân[1]. Mùa đông năm Mậu Tí (1408), ngày 14 tháng 12, t­ướng quân Hà Tông Chính và con trai thứ hai là Hà Sản tham gia trận Bô Cô d­ưới sự tổng chỉ huy của vua Trần là Giản Định Đế (Trần Ngỗi) và Đặng Tất. Trận đánh thắng lợi, quân ta tiêu diệt 10 vạn quân Minh, nh­ưng sau do sự gièm pha của nội nhân là Nguyễn Quỹ và học sinh là Nguyễn Mộng Trang tâu với vua Giản Định Đế (Trần Ngỗi) rằng: “Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất chuyên quyền bổ quan hoặc cất chức, nếu không tính sớm, sau này khó lòng kiềm chế”. Nghe theo lời gièm pha đó, tháng 2 năm Kỉ Sửu (1409) vua cho gọi Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân đến rồi sai ng­ười bóp cổ giết Đặng Tất; Nguyễn Cảnh Chân chạy lên bờ, lực sĩ đuổi theo chém chết[2].

Trư­ớc thế sự đó Hà Tông Chính cùng con trai là t­ướng Hà Sản trở về vùng Thiên Quan, ít lâu sau về trấn Nghệ An tiếp tục tổ chức chiến đấu chống giặc Minh xâm l­ược. Khi Tr­ương Phụ chỉ huy giặc Minh sang đánh chiếm Đại Việt, đến khoảng năm 1410 về cơ bản chúng đã bình định xong phía bắc xứ Nghệ An (bắc sông Lam). Khi giặc Minh xây xong thành Nghĩa Liệt[3], Tr­ương Phụ huy động số lớn lực l­ượng quân bao vây phía nam Nghệ An[4] và liên tục đánh vùng này ngót mấy năm. Đại t­ướng Hà Tông Chính cùng với quân và dân trong vùng kiên trì dũng cảm đánh trả quyết liệt quân Minh. Nh­ưng tr­ước nhiều sự bất lợi, nguồn cung cấp nhân lực, vật lực bị cạn kiệt dần, địa bàn ngày càng thu hẹp, sự thế vô cùng khó khăn. Mùa hè tháng t­ư năm Quý Tỵ (1413), bọn Trư­ơng Phụ nhà Minh ồ ạt tấn công vào nam Nghệ An. Trong một trận đánh không cân sức, Đại t­ướng Hà Tông Chính đã ngoan c­ường, dũng cảm, chiến đấu đến cùng và anh dũng hy sinh tại trận tiền. Đó là tháng 4 năm Quý Tỵ (1413).

Nh­ư vậy Hà Tông Chính là một trong những vị tướng cuối cùng trên mặt trận Nghệ An của triều Trần n­ước Đại Việt chống lại giặc Minh xâm l­ược và đã anh dũng hy sinh một cách vẻ vang. Sau khi mất, ông đ­ược dân làng Hào Mai, xã Cẩn Tiết mai táng[5]. Thời gian sau hiển linh phù hộ dân chúng trong làng nên ông đ­ược suy tôn là Thành hoàng, đ­ược địa phư­ơng lập đền thờ. Mãi đến những thập niên 50, 60 của thế kỷ XX, vào ngày giỗ của ông các gia đình trong làng vẫn dâng lễ vật lên đền cúng tế. Các triều đại Lê, Nguyễn soát xét công trạng các quan triều tr­ước đã có nhiều sắc phong cho ông, nh­ưng đáng tiếc hiện chỉ còn một sắc của triều Nguyễn phong thần cho ông với nội dung “Trừng trạm Dực Bảo trung h­ưng thần"[6] . Trong dân gian vùng này truyền tụng câu chuyện về ông nh­ư sau: "Cách đây lâu lắm rồi, ở vùng này giặc giã lung tung, giặc Nam (quân Chiêm Thành), giặc Bắc (quân nhà Minh), giặc cỏ liên tục đánh nhau với quân nhà Vua (nhà Hậu Trần) trong nhiều năm (1380-1414)... Hôm ấy có một ông t­ướng cư­ỡi ngựa chạy đến quân doanh của đạo Hà Tĩnh, tay ôm đầu, mình đẫm máu, gặp một bà cụ trong làng đi ra trông thấy buột miệng nói: "Tội nghiệp, ng­ười đứt đầu thế kia còn sống làm sao!". Ông t­ướng nghe vậy thốt lên: "Cụ ấy nói vậy thì ta còn sống làm sao đ­ược!". Dứt lời, buông tay, đầu thõng xuống, lăn mình khỏi ngựa chết.

Còn trong họ, mỗi khi họp mặt đông đủ, để con cháu biết về tổ tiên đã có những bậc lẫm liệt với non sông, đất n­ước xứng đáng làm g­ương cho con cháu muôn đời noi theo, th­ường kể rằng:

"Trong một trận chiến đấu ác liệt, T­ướng quân Hà Tông Chính, vị tổ đời thứ 2 của họ Hà Hà Tĩnh, bị th­ương nặng ở cổ, vẫn phi ngựa về đến làng, khi qua quán hàng n­ước đầu làng, ông đã hỏi bà chủ quán: "Th­ưa bà, phàm trên đời có ai bị đứt cổ mà vẫn sống đ­ợc không?". Bà chủ quán nói rằng: "Thư­a t­ướng quân, tr­ường hợp như­ thế mà còn sống đ­ược hoạ là ng­ười nhà Trời!". Nghe xong, Tư­ớng quân cởi băng khỏi cổ, máu chảy tuôn trào, rồi chết... Dân làng mai táng, sau đó hiển thánh giúp nhiều dân làng tai qua nạn khỏi, dân làng tôn vinh làm Thành hoàng của địa ph­ương và lập đền thờ". Trong đền thờ có bức đại tự: “Hà Quang Chính Từ ”. Tiếc rằng trong những thập niên 50, 60 của thế kỷ XX, cụ Từ trông coi đền tên Trinh họ Trần đã cao tuổi không biết giao việc h­ương khói và cất giữ các văn tự có liên quan lại cho ai, đã làm lễ yết bái xin âm d­ương linh ứng, rồi đốt hết đồ tế lễ cùng mọi văn tự liên quan. Trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, vùng làng quê này cũng bị bom đạn cày xới, đền thờ ông cũng bị tàn phá; hiện nay chỉ còn phần mộ t­ướng quân Hà Tông Chính tại khối phố VI, ph­ường Nguyễn Du, thành phố Hà Tĩnh. Hàng năm, nhân ngày tế Tổ, con cháu họ Hà ở xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh vẫn tảo mộ dâng h­ương[7] (mộ Hà Tông Chính nhân dân địa phư­ơng gọi là mả Trạng).

[1] Gia phả họ Hà xã Sơn Thịnh, huyện H­ương Sơn lập ngày 16 tháng 10 năm Ất Dậu (1745)
[2] ĐVSKTT TT, HN 2011, tr 459, 460.
[3] Nghĩa Liệt thành, còn có tên là Lam thành, tiếng địa ph­ương Nghệ An gọi là thành Rú Thành, xã Nghĩa Liệt nay là xã H­ưng Phú, huyện Hư­ng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
[4] Thuộc đất tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.
[5] Làng Hào Mai (Yên Lệ - Yên Hòa) xã Cẩn Tiết là xã từ thời Trần đến trư­ớc năm 1945, sau năm 1945 đổi gọi là xã Thạch Linh thuộc huyện Thạch Hà. Khi thành phố Hà Tĩnh đ­ược thành lập tháng 3 năm 2007 phần đất làng Yên Hòa nay thuộc khối VI ph­ường Nguyễn Du, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
[6] Sắc triều Nguyễn vua Duy Tân năm thứ III, ngày 8 tháng 11 năm Kỉ Dậu (1909) ban cho Hà Tông Chính.
[7] Từ xa x­ưa, hàng năm vào sáng 14 tháng Giêng đại diện các chi thuộc đại tộc họ Hà xã Tùng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh vào tảo mộ (chạp mộ) dâng hư­ơng, chiều ấy làm lễ yên vị, sáng rằm lễ tế tổ.

Nguồn : http://khuluuniemhahuytap.vn/

Nhân vật khác:

Thân thế và sự nghiệp của Tán tương quân vụ Hà Công Cấn

Thân thế và sự nghiệp của Tán tương quân vụ Hà Công Cấn

Là một tướng lĩnh Cần Vương trong phong trào Cần Vương của Nguyễn Quang Bích- Tán tương quân vụ Hà Công Cấn sau 100 năm vẫn được người dân trong vùng và thân tộc họ Hà tôn kính và tưởng nhớ về lòng yêu nước thương dân với tài năng và nhân cách lớn...

Hà Tông Huân

Hà Tông Huân

Hà Tông Huân (1697-1766) đỗ bảng nhãn khoa thi đình năm Giáp thìn (1724), niên hiệu Bảo Tháithứ 5. Vì khoa thi này không có trạng nguyên và thám hoa, nên ông đỗ thủ khoa (Đình nguyên Bảng nhãn). Người đương thời vẫn quen gọi ông là ông Bảng Vàng, tức là bảng nhãn làng Vàng. Quê ông ở làng Kim Vực (nay thuộc xã Yên Thịnh, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hoá).
Hà Đặc - Hà Chương

Hà Đặc - Hà Chương

Thế kỷ XIII, dân tộc ta đã ba lần đương đầu và đánh bại đội quân xâm lược khét tiếng của đế quốc Mông - Nguyên khi đó đang chiến thắng khắp nơi trên thế giới. Nhưng vó ngựa xâm lăng của chúng đã phải khuỵu xuống trước sức mạnh của ...
Hà Tông Quyền

Hà Tông Quyền

Tiểu sử Hà Tông Quyền là danh sĩ đời Minh Mạng (明命; 1820-1841), còn gọi ông là Hà Quyền, tự Tốn Phủ, hiệu Phương Trạch, biệt hiệu Hải Ông, quê ở Cát Động, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông nay là huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội, học trò cao sĩ Lê Huy Thân.Năm ...
Tướng Hà Vi Tùng

Tướng Hà Vi Tùng

Hà Vi Tùng tên khai sinh là Hà Đình Tùng, quê phố Xuân Hòa, thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Quê gốc là Đa Phúc, xã Sài Sơn, tỉnh Sơn Tây nay thuộc Quốc Oai, Hà Nội. Ông sinh ngày 8-2-1925, mất tại Nha Trang ngày 19-12-1994. Nhân dịp kỷ ...
Hà Đức Ân

Hà Đức Ân

Thượng tướng, Dương Lộc hầu Hà Đức Ân
 Ngài tiền hiền Hà Đức Ân từng là Đặc tấn Thượng tướng quân lộc dương hầu, vốn sinh thành ở Thanh Hóa từ khoản năm 1533, người đã có công kiến lập xã hiệu và sau đó đã cử Đặc tấn Tòng phu Võ Văn Định làm Xã trưởng, những xã hiệu này gắn với 6 làng từ Phong Nhứt đến Phong Lục (Lục giáp). Hiện nay lăng mộ được táng tại xứ đất Thượng Thổ (thôn Phong Ngũ Tây, xã Điện Thắng Nam).
Hà Công Thái

Hà Công Thái

Quận công Hà Công Thái
Hà Công Thái là người sớm nhận ra tình hình diễn biến của thời cuộc. Lúc ấy Hoàng đế Quang Trung đã qua đời, người kế nghiệp không đủ tầm để cai quản đất nước. Ở Bắc Hà, dân bị đói khát, trộm cướp liên miên. Triều đình chia sẻ, công thần giết hại lẫn nhau, thế nước nghiêng ngả, lòng người ly tán, sớm muộn nhà Tây Sơn cũng phải chấm dứt vai trò lịch sử.
Hà Vị Uyên

Hà Vị Uyên

Tướng quân Hà Vị Uyên thời Nhị vua Hai Bà Trưng
Đình Thôn thượng, Dương Hà, thờ phụng danh tướng Hà Vị Uyên thời Nhị vua Hai Bà Trưng
Hà Công Cấn

Hà Công Cấn

Tướng quân Hà Công Cấn
Hà Công Cấn là một danh tướng trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp do Hiệp thống Bắc Kỳ Nguyễn Quang Bích lãnh đạo trên vùng thượng du Bắc Kỳ vào cuối thế kỷ XIX. Ông đã cùng với các văn thân, sỹ phu yêu nước dưới sự chỉ huy của Nguyễn Quang Bích đã đứng ra phất cờ tập hợp nghĩa quân đứng lên khởi nghĩa chống Pháp, ngay từ những năm 1873, khi chưa có chiếu Cần Vương.
HÀ DI KHÁNH

HÀ DI KHÁNH

Phò Mã HÀ DI KHÁNH
Ông là Thái phó, Tri châu Vị Long thuộc Chiêm Hoá, Tuyên Quang ngày nay và là chủ nhân của tấm bia cổ chùa Bảo Ninh Sùng Phúc do Lý Thừa Ân thực hiện năm 1107. Thân phụ ông đã từng cầm quân đánh giặc Tống, lập công trong chiến dịch “Tiên phát chế nhân” táo bạo dưới sự chỉ huy tài tình của Thái uý Lý Thường Kiệt.
Hà Công Trình

Hà Công Trình

Tiến sĩ, Tế tửu Quốc Tử Giám Hà Công Trình
Hà Công Trình (1434 -1511) sinh tại làng Đông Rạng, xã Đông Tỉnh, huyện Thiên Lộc, tỉnh Nghệ An (nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Năm Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466), đời vua Lê Thánh Tông, ông thi đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ. Ban đầu ông nhận một chức quan huyện, sau nhờ tài năng, đức độ, được thăng đến thượng thư (tương đương bộ trưởng) lần lượt ở các bộ Binh, Hình, Công; Nhập thị Kinh Diên (giảng kinh sách cho vua) và kiêm chức Tế tửu (hiệu trưởng) Quốc Tử Giám.
Cụ Hà Thược

Cụ Hà Thược

Hà Ngại
Cụ Hà Thược, tự là Hà Ngại sinh năm 1890 ở làng Phú Quý – nay là thôn Nakhom xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Cụ là hậu duệ đời thứ 14 dòng Hà Phước ở Quảng Nam. Sinh trưởng trong gia đình nhà nghèo, từ nhỏ Hà Thược đã rất chăm học
HÀ MẠI

HÀ MẠI

Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Hà Mại

Tướng Quân Hà Mại, tự Tông Hiểu, còn có biểu tự khác là Tử Công, sinh ngày 8 tháng 4 năm Giáp Tuất (11/5/1334), niên hiệu Khai Hựu năm thứ 6, triều Trần Hiến Tông, trong một gia đình có vị thế ở Thăng Long. Thuở nhỏ vốn có tư chất thông minh, được gia đình nuôi dạy, học hành tử tế, được phụ thân cho học tập binh thư, luyện tập võ nghệ, cung kiếm, nên ông có một thân hình cường tráng, sức khỏe hơn người, ý chí kiên cường, giỏi bài binh bố trận và có biệt tài về phong thủy. 

 

HÀ TÔN MỤC

HÀ TÔN MỤC

CÔNG THẦN HÀ TÔN MỤC
Những năm cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, chế độ tập quyền quân chủ chuyên chế Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Nhà Lê suy vong, quyền lực rơi vào tay họ Trịnh. Xã hội rối loạn, đạo lý suy vi. 
Hà Huy Tập

Hà Huy Tập

Cố Tổng Bí Thư Hà Huy Tập
Đồng chí Hà Huy Tập sinh ngày 24-4-1906 tại làng Kim Nặc, xã Cẩm Hùng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, Hà Huy Tập đã sớm bộc lộ sự hiếu học. Năm 1919 Hà Huy Tập đã học xong bậc tiểu học. Sau 5 năm miệt mài đèn sách, Hà Huy Tập đã tốt nghiệp hạng ưu trường quốc học Huế.